Bối cảnh Lịch sử Huldrych_Zwingli

Bản đồ Liên bang Thụy Sĩ năm 1515.

Liên bang Thụy Sĩ trong thời Zwingli bao gồm 13 tiểu bang (canton) cùng các bang liên kết và các lãnh địa. Không giống quốc gia Thụy Sĩ đương đại được điều hành bởi một chính quyền liên bang, 13 tiểu bang này hầu như hoàn toàn độc lập, tự quản trong cả lĩnh vực đối nội lẫn đối ngoại. Mỗi tiểu bang thành lập liên minh với các bang khác trong hoặc ngoài Liên bang. Quyền tự trị này được xem là yếu tố chủ chốt dẫn đến những tranh chấp xảy ra trong thời kỳ cải cách khi những bang này gia nhập các liên minh tôn giáo đối nghịch nhau.

Môi trường chính trị ở châu Âu trong thế kỷ 15 và 16 thường là bất ổn. Đã từ lâu, chính sách đối ngoại của Liên bang Thụy Sĩ được ấn định bởi nước Pháp láng giềng hùng mạnh. Tuy trên danh nghĩa, Liên bang đặt dưới quyền cai trị của một thế lực khác, Nhà Habsburg (Áo) và Thánh chế La Mã, trong thực tế, sau một loạt các cuộc chiến mà cao điểm là chiến tranh Swabia, Liên bang là một thực thể độc lập. Sự thù địch và tranh chấp lẫn nhau giữa hai thế lực chính ở đại lục cùng các quốc gia nhỏ hơn như Công quốc Milan, Công quốc Savoy, và Các Lãnh thổ của Giáo hoàng đã có tác động sâu sắc và lâu dài đến Thụy Sĩ. Trong thời kỳ hệ thống lính đánh thuê đang là mục tiêu của nhiều bất đồng nội bộ, các phe phái tôn giáo trong thời Zwingli lớn tiếng tranh cãi với nhau về tính hữu dụng của việc gởi thanh niên Thụy Sĩ đi đánh thuê ở nước ngoài nhằm làm giàu cho giới thẩm quyền các tiểu bang.[2]

Chính những tranh chấp này đã giúp khởi phát ý thức quốc gia trong Liên bang, thuật ngữ "Tổ quốc" (patria) bắt đầu được sử dụng vượt quá ranh giới các tiểu bang. Đồng thời, chủ nghĩa nhân bản, với các giá trị phổ quát và sự tập chú và học thuật (mà Erasmus, "ông hoàng của chủ nghĩa nhân bản", là một mẫu mực), cũng bén rễ tại đây. Chính trong bối cảnh này, thời điểm hình thành sự hợp lưu giữa tinh thần ái quốc Thụy Sĩ với chủ nghĩa nhân bản, là lúc Zwingli ra đời.[3]